Nét đẹp trong các phương pháp chứng minh Vẻ đẹp của toán học

Các nhà toán học miêu tả các phương pháp chứng minh của mình một cách thanh nhã. Phụ thuộc vào nội dung của bài toán, họ có thể:

Trong công việc nghiên cứu một cách chứng minh thanh nhã, các nhà toán học đi theo nhiều con đường chứng minh khác nhau để dẫn tới kết quả, cách chứng minh đầu tiên chưa chắc đã là cách chứng minh hoàn hảo nhất. Định lý Pytago, a 2 = b 2 + c 2 {\displaystyle a^{2}=b^{2}+c^{2}} , là một ví dụ điển hình vì nó có rất nhiều các cách chứng minh được đưa ra.

Một ví dụ khác là Định lý tương hỗ bậc II (quadratic reciprocity), riêng Carl Friedrich Gauss đã đưa ra trên 10 cách chứng minh khác nhau cho định lý này. Định lý tương hỗ phát biểu:

Nếu tồn tại một số nguyên x và các số nguyên dương n, p, q sao cho x n = q   ( m o d   p ) {\displaystyle x^{n}=q\ (mod\ p)} , q được gọi là phần dư bậc ''n'' của p khi và chỉ khi x n = q   ( m o d   p ) {\displaystyle x^{n}=q\ (mod\ p)} có khả năng tìm được nghiệm x.

Định lý tương hỗ (hay định lý nghịch đảo) là sự liên hệ giữa "q là phần dư bậc n của p" và "p là phần dư bậc n của q". Viết theo ký hiệu của Lâm Đức Chung là: q p {\displaystyle {\frac {q}{p}}} và p q {\displaystyle {\frac {p}{q}}} . Với trường hợp n = 2, gọi là Định lý tương hỗ bậc II, được Gauss đưa ra chứng minh hoàn thiện lần đầu tiên. Gauss đồng thời cũng giải quyết với trường hợp n = 3, gọi là Định lý tương hỗ bậc III, sử dụng dạng nguyên a + b β {\displaystyle a+b\beta } , trong đó β là nghiệm của phương trình x 2 + x + 1 = 0 {\displaystyle x^{2}+x+1=0} và a', b là các số nguyên hữu tỉ.

Gauss có gợi ý với trường hợp n = 4 (Định lý tương hỗ bậc IV), sử dụng số nguyên Gaussian (một số nguyên Gaussian là một số phức có dạng a + bi, trong đó a và b là các số nguyên).

Phần chứng minh tổng quát, với bậc n là số nguyên tố, được đưa ra bởi Ferdinand Eisenstein trong những năm 18441850, và Ernst Eduard Kummer trong những năm 18501861. Và định lý tương hỗ dạng tổng quát với mọi n được chứng minh bởi Emil Artin vào những năm 1920, do đó, định lý này còn gọi là Định lý tương hỗ Artin.

Nhà toán học người Hung Paul Erdős thì tưởng tượng rằng Thượng đế có một cuốn sách chứa tất cả những các chứng minh đẹp đẽ nhất trong toán học. Mỗi khi Erdos muốn miêu tả một cách chứng minh độc đáo, ông đều nói "Cách chứng minh ấy nằm trong cuốn sách này đó".

Ngược lại, các kết quả từ suy luận lôgic, chứa các bước tính tỉ mỉ, không được xếp vào hàng các cách chứng minh thanh nhã, mà gọi là các chứng minh khó coi hay thô kệch. Ví dụ những cách chứng minh phụ thuộc vào việc giới hạn các trường hợp riêng biệt, như phương pháp vét cạn được sử dụng trong chứng minh Định lý bốn màu.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Vẻ đẹp của toán học http://www.chemistrycoach.com/science_mathematics_... http://www.justinmullins.com/ http://www.math.ucla.edu/~tao/preprints/Expository... http://users.forthnet.gr/ath/kimon/ http://diendantoanhoc.net/forum/index.php?showtopi... http://www.cut-the-knot.org/manifesto/beauty.shtml http://www.the-athenaeum.org/poetry/detail.php?id=... http://creativelab.org.ua/eng/index_eng.htm http://www.madras.fife.sch.uk/maths/linksbeauty.ht... https://web.archive.org/web/20031004103933/http://...